Các phương pháp chẩn đoán và điều trị ung thư phổi

29/09/2023 07:28

 

Phương pháp chẩn đoán khối ung thư phổi

 

Ngay khi xuất hiện các triệu chứng ung thư đường hô hấp, người bệnh cần đi khám càng sớm càng tốt để được chẩn đoán và điều trị sớm. Bác sĩ sẽ tiến hành khám sức khỏe tổng quát, sau đó chỉ định thực hiện các kiểm tra cận lâm sàng sau:  

 

Hình: Chẩn đoán ung thư phổi

 

Chẩn đoán hình ảnh: Một khối u bất thường có thể được nhìn thấy thông qua phim chụp X-quang, MRI, CT và PET.

Xét nghiệm đờm: Nếu xuất hiện triệu chứng ho có đờm, sẽ tiến hành kiểm tra đờm bằng kính hiển vi. Đây là một trong những phương pháp xác định có tế bào ung thư trong đó hay không.

Ngoài ra, bác sĩ có thể yêu cầu người bệnh thực hiện sinh thiết nhằm kiểm tra xem khối u ở vị trí này là lành hay ác tính. Bác sĩ sẽ lấy mẫu mô bằng một trong những cách sau:

Nội soi phế quản: Một ống soi mềm được đưa qua mũi hoặc miệng, đi qua cổ họng và vào phổi.

Nội soi trung thất: Bác sĩ mở một đường nhỏ vào bên trong lồng ngực, sau đó đưa dụng cụ vào để lấy mẫu từ các hạch bạch huyết. Khi thực hiện thủ thuật này, bệnh nhân sẽ được gây mê toàn thân.

Sinh thiết kim phổi: Kết quả chẩn đoán hình ảnh là cơ sở để bác sĩ xác định vị trí khối u. Sau đó, một cây kim sinh thiết được đưa qua thành ngực và đến mô phổi có khối u để lấy mẫu.

Sau khi phân tích các mẫu mô, nếu kết quả dương tính với tế bào ung thư, bệnh nhân sẽ được chỉ định làm thêm các kiểm tra khác: Chụp xương, siêu âm ổ bụng… nhằm xác định xem ung thư đã lan rộng hay chưa, đang ở giai đoạn nào… 

 

Phương pháp điều trị ung thư phổi

Đối với ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC), phương pháp điều trị phụ thuộc vào từng giai đoạn bệnh:

Giai đoạn 1: Phẫu thuật cắt bỏ một phần phổi, có thể hóa trị nếu bệnh có nguy cơ tái phát cao.

Giai đoạn 2: Phẫu thuật để loại bỏ một phần hoặc toàn bộ lá phổi, kèm hóa trị để hạn chế tái phát khối u.

Giai đoạn 3: Kết hợp cả hóa trị, phẫu thuật và xạ trị.

Giai đoạn 4: Khối u đã di căn rộng nên không thể loại bỏ hoàn toàn. Lúc này, mọi biện pháp như phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, liệu pháp miễn dịch… chỉ nhằm mục tiêu kiểm soát khối u và cải thiện triệu chứng bệnh.

 

Phẫu thuật ung thư phổi

Phẫu thuật có thể chữa khỏi ung thư phổi cho khoảng một nửa số bệnh nhân phải phẫu thuật

Với ung thư phổi tế bào nhỏ, phương pháp điều trị phổ biến thường chỉ là hóa trị và xạ trị. Bởi lẽ, trong hầu hết các trường hợp được phát hiện, khối u đã quá lớn và khó phẫu thuật.

Phẫu thuật có thể chữa khỏi ung thư phổi cho khoảng một nửa số bệnh nhân phải phẫu thuật. 

 

Những xét nghiệm thăm dò nào sẽ là cần thiết trước phẫu thuật?

Tiền sử bệnh, khám sức khỏe, chụp X-quang phổi và xét nghiệm máu là những khám nghiệm ban đầu phổ biến nhất.

Nếu thấy hoặc nghi ngờ có khối u thì việc chụp CT sẽ được thực hiện để đánh giá toàn bộ phổi và vùng bụng trên một cách chi tiết hơn nhiều so với chụp X-quang phổi thông thường. Đây là một xét nghiệm không đau khi bệnh nhân nằm trên bàn trong khi máy X-quang quét các khu vực mục tiêu.

Nếu khối u trông giống như nó nằm trong các ống dẫn gió chính của phổi, bạn có thể nên nội soi phế quản. Đây là nơi dưới tác dụng của thuốc an thần, một ống nhỏ (nội soi phế quản) được truyền vào ống gió và lấy mẫu khối u (sinh thiết). Mô này được xem xét dưới kính hiển vi để kiểm tra các tế bào ung thư.

Nếu không thể tiếp cận khối u bằng ống soi phế quản thì thường người bệnh sẽ được gửi đi xét nghiệm chọc hút bằng kim nhỏ. Đây là khi một cây kim được đưa qua thành ngực vào khối u và lấy mẫu tế bào. Điều này thường sẽ đưa ra chẩn đoán.

Thông thường với bệnh nhân có nghi ngờ u phổi những xét nghiệm có thể phải làm nhằm có kết quả chẩn đoán trước khi quyết định phẫu thuật: Xét nghiệm máu; Xét nghiệm nước tiểu; Điện tâm đồ; Chụp cắt lớp sinh thiết khối u; Thăm dò chức năng hô hấp.

 

Ca phẫu thuật

Phẫu thuật là cách đáng tin cậy duy nhất được biết đến để chữa khỏi ung thư phổi. Chỉ có khoảng 15-25% tổng số bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi sẽ được phẫu thuật. Hai lý do chính khiến phẫu thuật không phù hợp với đa số là:

1. Ung thư phổi thuộc loại không đáp ứng với phẫu thuật (nếu khối u là ung thư phổi tế bào nhỏ thì phẫu thuật không có lợi ích gì).

2. Khối u đã phát triển quá xa để phẫu thuật có thể có tác dụng hữu ích (điều này thường được chứng minh bằng chụp CT hoặc nội soi trung thất .

Nếu bệnh nhân bị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ thì nên phẫu thuật miễn là khối u chỉ giới hạn trong phổi và không lan đến các hạch bạch huyết xung quanh khí quản chính hoặc xa hơn nữa vào phần còn lại của cơ thể người.

Nếu các hạch bạch huyết xung quanh khí quản chính trông to ra trên phim chụp CT, một thủ thuật tiểu phẫu thường được chỉ định. Thao tác này được gọi là nội soi trung thất. Nó được thực hiện dưới gây mê toàn thân, đưa ống nội soi vào ngực thông qua một vết rạch rất nhỏ 1-2 cm ở phần dưới của phía trước cổ ngay trên xương ức. Nếu các tuyến bạch huyết không có khối u khi nhìn dưới kính hiển vi thì có khả năng nên phẫu thuật thêm để loại bỏ ung thư phổi.

 

Ai phù hợp để phẫu thuật?

Theo nguyên tắc chung, nếu bệnh nhân không có vấn đề gì lớn về tim và có thể đi bộ lên hai bậc cầu thang mà không gặp khó khăn thì họ sẽ chấp nhận được việc cắt bỏ khối u. Các bài kiểm tra hơi thở thường được thực hiện bởi bác sĩ chuyên khoa để xác nhận tình trạng đủ sức khỏe cho cuộc phẫu thuật.

Phẫu thuật được thực hiện thông qua nội soi hoặc mổ mở một bên của ngực (mở lồng ngực) và phổi được tiếp cận bằng cách đi vào giữa các xương sườn. Phần phổi có chứa khối u sau đó được cắt bỏ và gửi đến phòng xét nghiệm để phân tích thêm. Điều này thường liên quan đến việc lấy một nửa phổi (cắt bỏ tiểu thùy) nhưng đôi khi là toàn bộ phổi (phẫu thuật cắt phổi). Lấy ít hơn một nửa lá phổi (cắt bỏ hình chêm) dường như không phải là một phẫu thuật ung thư thích hợp trong phần lớn các trường hợp. 

Sau phẫu thuật bác sĩ sẽ để lưu lại tạm thời các ống trong lồng ngực dẫn xuống các chai bên cạnh giường và những ống này sẽ hút hết chất lỏng hoặc không khí ra khỏi lồng ngực và giúp phổi được mở rộng hoàn toàn. Khi tất cả dịch thoát ra khỏi lồng ngực dừng lại, các ống này sẽ được lấy ra. 

Thông thường, người bệnh sẽ về nhà trong vòng 1 tuần đầu sau phẫu thuật (thường là 3-7 ngày). Ở giai đoạn này, bệnh nhân có thể tự do đi lại trong phòng, tự tắm rửa và thay quần áo và thường có thể xoay sở với cầu thang.

Nhìn chung thời gian hồi phục là 4-8 tuần. Nhiều người có thể trở lại làm việc sau 3-4 tuần, mặc dù nếu công việc của họ nặng nhọc thì thường phải nghỉ 6-8 tuần.

 

Có bao nhiêu người được chữa khỏi bằng phẫu thuật?

Khoảng 50% bệnh nhân được chữa khỏi (sống sau 5 năm) bằng phẫu thuật. Nếu ung thư tái phát sau phẫu thuật thì thường không thể chữa khỏi. Điều này rất có thể xảy ra trong vòng 1-2 năm đầu tiên. Mặc dù tỷ lệ chữa khỏi 50% bằng phẫu thuật nghe có vẻ không tốt, nhưng điều quan trọng cần nhớ là không phẫu thuật, cơ hội sống 5 năm sau khi chẩn đoán giảm xuống còn khoảng 5%.

 

PGS.TS Phạm Hữu Lư, Phó Trưởng khoa Ngoại Tim mạch và Lồng Ngực &

ThS. Nguyễn Xuân Vinh, Điều dưỡng Trưởng Trung tâm Tim mạch và Lồng ngực, Bệnh viện HN Việt Đức

 

Tagged in: Tags: