Tầm soát ung thư đại trực tràng
14/08/2018 13:19
Nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng
Ung thư đại trực tràng (UTĐTT) là bệnh lý khá phổ biến trên thế giới, mỗi năm có gần 800.000 người mới mắc ung thư đại tràng và khoảng nửa triệu người chết vì bệnh này. Ở Bắc Mỹ và Châu Âu, số người chết vì bệnh đứng thứ 2 sau ung thư vú và phổi ở nữ. Tỷ lệ mắc UTĐTT khác nhau đáng kể giữa các vùng trên thế giới. Ở các nước phát triển tỷ lệ này cao gấp 4-10 lần các nước đang phát triển. Ở Việt Nam, UTĐTT đứng thứ 5 sau ung thư dạ dày, phổi, vú, vòm. Theo thống kê của bệnh viên K, tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng là 9% tổng số bệnh nhân ung thư.Tại Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng 140000 người được chẩn đoán ung thư đại trực tràng và hơn 50000 người tử vong; nguy cơ mắc trong thời gian sống của mọi người là 1 trong 20 người (5%). Nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng tăng ở người có tiền sử gia đình có người mắc ung thư đại trực tràng. Người bệnh có bệnh sử ung thư buồng trứng, tử cung, vú đều làm tăng nguy cơ phát triển ung thư đại trực tràng. Bệnh sử cá nhân hoặc gia đình có polyp đại trực tràng cũng làm tăng nguy cơ ung thư. Cả bệnh Crohn và viêm loét đại trực tràng đều có thể tiến triển ung thư.
Tại sao mọi người cần được tầm soát ung thư?
Ung thư đại trực tràng hiếm khi biểu hiệu thành triệu chứng ở thời kỳ sớm. Ung thư đại trực tràng thường bắt đầu bằng những polyp lành tính. Những polyp đại tràng có thể ở dạng tiền ung thư hoặc dạng không phát triển thành ung thư. Polyp có thể được phát hiện bằng những phương pháp kiểm tra và được cắt bỏ do đó có ngăn cản được sự phát triển thành ung thư. Ung thư nếu ở giai đoạn sớm tỷ lệ có thể chữa khỏi lên đến 90%. Khi ung thư đại trực tràng biểu hiện triệu chứng chảy máu, thay đổi thói quen đại tiện hoặc đau bụng, lúc đó bệnh thường ở giai đoạn tiến triển muộn khi đó tỷ lệ chữa khỏi chỉ khoảng 50%.
Những phương pháp tầm soát nào có thể được sử dụng?
– Xét nghiệm máu ẩn trong phân, kiểm tra một vài mẫu phân để phát hiện máu từ những polyp hay những khối u. Nếu xét nghiệm dương tính người bệnh cần được soi đại tràng ống mềm để kiểm tra.
– Nội soi đại tràng ống mềm là phương pháp sử dụng một ống mềm dài có đầu camera để đánh giá toàn bộ lớp bên trong của đại trực tràng; những vùng bất thường có thể được lấy bỏ hoặc lấy làm mẫu bệnh đánh giá trong phòng thí nghiệm. Nội soi đại trực tràng ống mềm là phương pháp an toàn và hiệu quả nên được khuyến nghị sử dụng để tầm soát, toàn bộ đại trực tràng được quan sát và những polyp tiền ung thư có thể được lấy bỏ và phòng ngừa ung thư. Soi đại tràng ống mềm là phương pháp tiêu chuẩn vàng để tầm soát ung thư đại trực tràng.
– Nội soi đại tràng sigma ống mềm có thể kiểm tra được 1/3 dưới của đại tràng khi đó thì 1/2 số polyp và ung thư có thể được phát hiện. Nếu phát hiện bất thường, nội soi đại tràng ống mềm cần được thực hiện.
– Chụp X-quang khung đại tràng có chuẩn bị với barit là phương pháp mà khi đó đại tràng được làm đầy bằng khí và chất cản quang để có thể nhìn thấy trên phim chụp. Phương pháp này chỉ được thực hiện khi soi đại trực tràng không thể thực hiện được.
Khuyến cáo tầm soát ung thư đại trực tràng
Những người không có yếu tố nguy cơ thì tầm soát bắt đầu vào tuổi 45. Nội soi đại trực tràng ống mềm 10 năm 1 lần được coi là tiêu chuẩn vàng. Nội soi đại tràng sigma mỗi 5 năm cùng với việc thực hiện xét nghiệm máu ẩn trong phân hàng năm là phương pháp tương tự nếu không thể nội soi đại tràng toàn bộ.
Những người có người thân bị ung thư đại trực tràng hoặc polyp nên bắt đầu tầm soát từ năm 40 tuổi, hoặc 10 tuổi trẻ hơn thời điểm mà người thân được chẩn đoán ung thư. Những người này nên được tầm soát 5 năm 1 lần ngay cả khi các xét nghiệm đều bình thường.
Những loại ung thư đại tràng di truyền ít phổ biến hơn (ung thư đại tràng di truyền không có nguồn gốc từ phlyp, bệnh đa polyp đường tiêu hoá có tính chất gia đình) có thể đòi hỏi nhiều lần tầm soát kiểm tra hơn và bắt đầu từ lứa tuổi trẻ hơn nhiều.
Khuyến cáo các phương pháp theo dõi sau tầm soát
Những người có polyp tiền ung thư được lấy bỏ nên được nội soi đại tràng 3 đến 5 năm / lần, tuỳ thuộc vào kích thước, loại và số lượng polyp được tìm thấy. Khoảng thời gian giữa 2 lần kiểm tra thường phụ thuộc vào bản chất của tổn thương được lấy bỏ. Nếu polyp không được lấy bỏ hoàn toàn bằng nội soi đại tràng ống mềm hoặc phẫu thuật, nội soi đại tràng lại được thực hiện sau 3 đến 6 tháng.
Hầu hết người bệnh ung thư đại trực tràng đã được phẫu thuật nên được nội soi đại trực tràng kiểm tra sau 1 năm. Nếu toàn bộ đại tràng không được kiểm tra trước phẫu thuật thì nội soi đại trực tràng nền được thực hiện từ 3 đến 6 tháng. Nếu lần kiểm tra đầu tiên bình thường thì nội soi đại tràng nên được thực hiện 3 đến 5 năm/ lần.
Những người mắc bệnh viêm loét đại trực tràng hoặc bệnh Crohn từ 8 năm trở lên nên được soi đại tràng và sinh thiết nhiều mảnh 1 đến 2 năm / lần.
BÁC SỸ PHẪU THUẬT CHUYÊN KHOA HẬU MÔN TRỰC TRÀNG LÀ AI?
Phẫu thuật viên chuyên khoa đại trực tràng là chuyên gia trong điều trị các bệnh về đại trực tràng và hậu môn bằng phẫu thuật hoặc không cần phẫu thuật. Họ được đào tạo và đã hoàn thành các khoá huấn luyện chuyên sâu về điều trị những bệnh này. Họ được đào tạo và trang bị đầy đủ các kiến thức về chẩn đoán, điều trị những bệnh lành tính cũng như ác tính của đại trực tràng. Luôn có thể thực hiện thành thạo các thủ thuật và phẫu thuật điều trị những bệnh đại trực tràng và hậu môn.
Ths.BS Phạm Phúc Khánh/ Trung tâm Hậu môn trực tràng và tầng sinh môn
-
Ung thư phổi di căn não nguy hiểm như thế nào?
16/09/2024 05:48
-
Kiểm soát đau: Các phương pháp giảm đau cho người bệnh
09/09/2024 05:38